(Giang Minh Thư - TP.HCM)
Tứ chứng Fallot được bác sĩ Fallot mô tả lần đầu vào năm 1888, là các tổn thương bệnh học trong tứ chứng Fallot. Những khiếm khuyết này bao gồm bốn tổn thương giải phẫu học là động mạch chủ cưỡi ngựa trên vách liên thất, thông liên thất, hẹp đường thoát thất phải và phì đại thất phải. Những tổn thương này làm cho lượng máu lên phổi để trao đổi oxy giảm xuống và máu kém bão hòa oxy đi vào tuần hoàn hệ thống gây nên tím, mức độ hẹp đường thoát thất phải là yếu tố quan trọng nhất, quyết định những bất thường huyết động học của tứ chứng Fallot. Tứ chứng Fallot gặp ở 3 trẻ trên 10.000 trẻ và chiếm 7 - 10% tất cả cácbệnh tim bẩm sinh.
Triệu chứng tứ chứng Fallot, tùy theo mức độ tắc nghẽn của dòng máu trong tâm thất phải và vào phổi; các dấu hiệu và triệu chứng như: da xanh gây ra bởi máu ít oxy, tím tái ở đầu chi và môi, khó thở và thở nhanh, đặc biệt là trong khi ăn; mất ý thức hay ngất xỉu, ngón tay và ngón chân dùi trống - hình dạng bất thường của nền móng, tăng cân kém, mệt mỏi một cách dễ dàng trong khi chơi, khó chịu, khóc kéo dài.
Tứ chứng Fallot xảy ra trong quá trình phát triển bào thai, khi tim của em bé đang phát triển, thường gặp khi các yếu tố như: dinh dưỡng của bà mẹ nghèo nàn, bệnh virút hoặc rối loạn di truyền có thể làm tăng nguy cơ của tình trạng này, trong hầu hết trường hợp,. Tuy nhiên, cho đến nay nguyên nhân chính xác của tứ chứng Fallot vẫn còn là một bí ẩn, các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu.
Ở hầu hết trẻ bị tứ chứng Fallot, phẫu thuật là phương pháp điều trị tối ưu và duy nhất. Phẫu thuật gồm đóng lỗ thông liên thất bằng miếng vá và làm thông mạch máu bị tắc nghẽn từ tâm thất phải đến phổi. Có hai loại phẫu thuật có thể được thực hiện, bao gồm phẫu thuật tim và thủ thuật tạm thời sử dụng cầu nối. Phẫu thuật tim, là loại phẫu thuật này thường được thực hiện trong năm đầu tiên của trẻ. Trong thủ thuật này, phẫu thuật viên sẽ đặt một tấm phủ lên lỗ thông liên thất để đóng lỗ thông giữa hai tâm thất. Phẫu thuật viên cũng sẽ sửa chữa hẹp van động mạch phổi và nong rộng động mạch phổi ra để tăng lưu lượng máu lên phổi; sau khi được phẫu thuật, nồng độ oxy trong máu sẽ tăng và triệu chứng của bé giảm xuống. Phẫu thuật tạm thời, đôi khi trẻ cần phẫu thuật tạm thời trước khi được sửa chữa trong tim, trường hợp này thường áp dụng cho trẻ sinh non hoặc bị thiểu sản động mạch phổi. Phẫu thuật viên sẽ tạo một cầu nối giữa động mạch chủ và động mạch phổi, luồng thông này sẽ làm tăng lưu lượng máu phổi. Khi đứa trẻ đã sẵn sàng để làm phẫu thuật tim, cầu nối sẽ được gỡ bỏ.
BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG