Đây là một bệnh thường gặp, mang tính xã hội cao, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa vĩnh viễn trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Ai dễ mắc bệnh?
Bệnh có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng có nguy cơ cao hơn ở những trường hợp sau: Những người trên 35 tuổi; những người ruột thịt của người bệnh glôcôm; những người có cấu trúc mắt nghi ngờ glôcôm (bán kính độ cong giác mạc nhỏ, tiền phòng nông, lõm đĩa thị rộng, chênh lệch độ lõm đĩa giữa hai mắt); bị lão thị sớm, tăng số kính lão nhanh…
Ngoài ra, người bệnh có tiền sử dùng corticoid kéo dài (tra mắt hoặc toàn thân), người có bệnh toàn thân như đái tháo đường, tăng huyết áp… cũng rất dễ bị bệnh glôcôm.
Cách nhận biết
Glôcôm góc đóng cơn cấp: Bệnh nhân đau nhức mắt đột ngột dữ dội, lan lên đỉnh đầu, kèm theo dấu hiệu mắt đỏ, mi nề, sợ ánh sáng, chảy nước mắt. Bệnh nhân nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ. Kết mạc cương tụ rìa mạnh, giác mạc phù nề, tiền phòng nông, giảm tính trong suốt. Đồng tử giãn méo, mất phản xạ, bờ đồng tử mất viền sắc tố, mống mắt cương tụ. Thể thủy tinh mờ đục, có thể rạn bao thể thủy tinh. Dịch kính phù nề, mất độ trong suốt, không soi rõ đáy mắt. Soi góc tiền phòng thấy góc đóng toàn bộ chu vi, có thể có dính góc. Nhãn áp tăng cao, nhãn cầu căng cứng như hòn bi.
Glôcôm góc đóng bán cấp: Thỉnh thoảng bệnh nhân xuất hiện những cơn đau nhức mắt, nhức đầu thoảng qua kèm theo nhìn mờ. Qua cơn thị lực trở lại bình thường. Các cơn tăng dần về tần suất, mức độ, thị lực ngày càng giảm, kèm theo là kết mạc cương tụ nhẹ, giác mạc phù nề nhẹ, tiền phòng nông, đồng tử giãn méo, phản xạ kém, mống mắt có đám thoái hóa, mất viền sắc tố bờ đồng tử. Thể thủy tinh và dịch kính phù nhẹ. Khi soi đáy mắt thường thấy có lõm teo đĩa thị giác đặc hiệu của glôcôm. Soi góc thấy góc tiền phòng đóng, nhãn áp cao. Thị trường tổn hại tùy theo giai đoạn bệnh.
Glôcôm góc đóng mạn tính: Bệnh thường ít gặp và cũng rất ít triệu chứng. Không có triệu chứng đau nhức hoặc đau nhức rất nhẹ. Thị lực giảm dần, phần lớn bệnh nhân khi đến bệnh thì đã bị mù hoặc gần mù một mắt. Kết mạc không cương tụ, giác mạc trong, tiền phòng nông, góc tiền phòng đóng. Khi đo, nhãn áp có thể cao hoặc có thể không cao. Lõm teo đĩa thị điển hình kiểu glôcôm. Chức năng thị giác tổn hại nhiều.
Glôcôm góc mở: Bệnh xuất hiện âm thầm, tiến triển mạn tính, lần lượt qua từng giai đoạn, thị lực trung tâm thường được bảo tồn đến giai đoạn muộn của bệnh. Người bệnh không nhận thấy thị lực ngày càng bị giảm nên thường đến khám ở giai đoạn muộn khi bệnh đã tiến triển nặng. Đa số người bệnh không đau nhức mắt hay đau nhức đầu. Một số người có cảm giác nặng, căng tức mắt thoáng qua, nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ, xuất hiện thành từng cơn ngắn rồi lại tự hết. Triệu chứng không rõ ràng nên thường ít được người bệnh quan tâm.
Điều trị bệnh như thế nào?
Bệnh glôcôm rất phức tạp do có rất nhiều hình thái với những cơ chế bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng, do đó đòi hỏi các phương pháp điều trị khác nhau. Ngoài ra, dựa trên cơ sở bệnh căn thì glôcôm có thể chia thành glôcôm nguyên phát và glôcôm thứ phát để điều trị. Glôcôm nguyên phát là hình thái glôcôm không kèm theo bệnh mắt hoặc bệnh toàn thân nào làm tăng trở lưu thủy dịch. Glôcôm thứ phát luôn kèm theo bệnh căn mắt hoặc bệnh toàn thân gây cản trở lưu thông thủy dịch.
Bệnh glôcôm nếu không được phát hiện và điều trị sẽ tiến triển qua các giai đoạn tiềm tàng, sơ phát, tiến triển, trầm trọng, gần mù và mù.
Bệnh glôcôm là một cấp cứu nhãn khoa. Người bệnh được điều trị ngay sau khi chẩn đoán bệnh bằng tra mắt và uống thuốc hạ nhãn áp. Hiện nay trên thị trường Việt Nam có nhiều thuốc hạ nhãn áp với những cơ chế tác động khác nhau như: Pilocarpin, timolol, betoptic S, alphagan P, travatan… Các thuốc này phải được sử dụng theo chỉ định, dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ nhãn khoa.
Glôcôm góc đóng thường được chỉ định điều trị phẫu thuật sau khi đã điều trị cấp cứu bằng thuốc. Mắt chưa bị lên cơn glôcôm cũng cần phải điều trị dự phòng bằng laser hoặc phẫu thuật.
Glôcôm góc mở cần can thiệp phẫu thuật khi điều trị thuốc không đạt hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam tuỳ thuộc điều kiện thực tế của người bệnh, cần chỉ định điều trị phẫu thuật sớm nếu người bệnh không có điều kiện kinh tế để mua thuốc hoặc không có điều kiện đi lại để thăm khám, kiểm tra, theo dõi định kỳ.
Bệnh glôcôm không thể chữa khỏi hoàn toàn. Mục đích điều trị glôcôm là nhằm ngăn chặn bệnh không tiếp tục gây tổn thương đầu dây thần kinh thị giác. Trong nhiều trường hợp glôcôm tuy đã được phát hiện và điều trị song người bệnh cho rằng đã được chữa trị khỏi hẳn nên không đi khám, theo dõi tiếp. Hậu quả là bệnh vẫn âm ỉ tiếp tục tiến triển dẫn đến mất dần chức năng thị giác. Bên cạnh đó trên nhiều người bệnh, mặc dù nhãn áp đã được điều chỉnh bằng thuốc hoặc phẫu thuật nhưng vẫn tiếp tục bị tổn hại thực thể và chức năng vì mức nhãn áp “điều chỉnh” đó hoặc mức dao động nhãn áp trong ngày chưa an toàn cho thị thần kinh. Vì vậy người bệnh glôcôm cần phải được chăm sóc theo dõi thường xuyên theo một quy trình chặt chẽ từ khi được phát hiện bệnh, được điều trị cho đến hết quãng đời còn lại nhằm kiểm soát được diễn biến bệnh, hạn chế tối đa tổn hại về thực thể và chức năng thị giác.
Cách phòng bệnh
Vì nguyên nhân sinh bệnh chưa rõ ràng nên không thể phòng ngừa mắc bệnh glôcôm. Tuy nhiên, có thể phòng tránh được mù loà do glôcôm bằng cách phát hiện sớm, điều trị thích hợp và theo dõi thường xuyên.
Bệnh glôcôm có thể phát hiện sớm bằng nhiều cách: Tại phòng khám mắt từ tuyến huyện trở lên, tất cả mọi người trên 35 tuổi đến khám bệnh đều phải được đo nhãn áp, soi đáy mắt. Cần lưu ý các trường hợp có các triệu chứng đặc hiệu của glôcôm, bị lão thị sớm, tăng số kính lão nhanh.
Tại phòng khám đa khoa: Đo nhãn áp cho các người bệnh có tăng huyết áp, đái tháo đường vì tỷ lệ glôcôm ở những người này khá cao.
Tích cực phát hiện glôcôm tại các cơ sở ngoài bệnh viện như cơ quan xí nghiệp, công, nông, lâm trường, khu phố, thị trấn, hợp tác xã, xã trong các đợt khám kiểm tra sức khoẻ định kỳ.
Những đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh glôcôm nên đi khám kiểm tra mắt định kỳ theo hẹn của bác sĩ ở các cơ sở chuyên khoa mắt. Thời gian khám lại, theo dõi phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và sự đáp ứng điều trị. Đặc biệt khi có các triệu chứng nghi ngờ glôcôm, người bệnh cần được khám ngay để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời, tránh để bệnh kéo dài dẫn đến gây tổn hại thực thể nặng nề trong mắt.
Glôcôm đứng thứ hai trong các nguyên nhân gây mù loà ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Bệnh không có thuốc điều trị và không phẫu thuật nào có thể phục hồi chức năng cho mắt.
BS. Đào Thị Lâm Hường